Heuristics – dịch nguyên từ tiếng Hy Lạp có nghĩa là “tìm kiếm” hoặc “khám phá”. Nhưng trong kinh tế học hành vi từ này chỉ một phương thức dùng để giải quyết một vấn đề hoặc một câu hỏi được đặt ra.
Giải thích một cách ngắn gọn, Heuristics là cách giải quyết vấn đề “lười biếng” dựa trên kinh nghiệm, và thói quen. Nhiều lúc thì rất thực tiễn nhưng đôi khi gây ra những tai hoạ ít ai ngờ tới.
Hằng ngày chúng ta có quá nhiều vấn đề cần trong cuộc sống và trong công việc cần được xử lí và một con người bình thường không thể dành ra quá nhiều công sức để phân tích tất cả mọi tình huống trước khi đưa ra quyết định. Vì vậy nên để xử lí những vấn đề quá dỗi thường nhật xảy ra thường xuyên, chúng ta sẽ có xu hướng dùng “luật ngón tay cái” để đơn giản hoá vấn đề. Điều thường xảy ra nhất là thay vì hỏi một câu hỏi cần được trả lời, chúng ta thay thế nó bằng một câu hỏi khác dễ đưa ra câu trả lời hơn để đỡ phải “mệt não”. Ví dụ như nếu bạn là một người tuyển dụng, bạn sẽ có phần thiên vị một ứng viên đơn thuần vì ứng viên đó có một đặc điểm giống với một nhân viên ưu tú của bạn thay vì đưa ra hàng loạt những câu hỏi liên quan đến nghiệp vụ và kinh nghiệm và đưa ra phân tích đánh giá xem ứng viên đó có thực sự phù hợp và có khả năng hoàn thành công việc.
Sau đây mình sẽ đưa ra ba khuynh hướng có tính đe doạ cho việc đưa ra quyết định của bạn.
Thiên vị những đại diện. Như Groopman ( giáo sư nghiên cứ y khoa nổi tiếng ở New York) có nói “Bác sĩ thường có những đánh giá sai khi họ bị ảnh hưởng quá nhiều bởi những lí thuyết thường đúng; họ quên cân nhắc những khả năng trái ngược với hình dung trong đầu họ về bệnh tật và thế nên họ sẽ quy sai nguyên nhân của triệu chứng bệnh. Vì vậy dù bạn có làm việc gì đi chăng nữa từ bác sĩ đến kinh doanh đến dịch vụ, tư duy bạn phải luôn sẵn sàng đón nhận những điều khác với thường nhật và không điển hình.
Thiên vị những điều dễ thấy và thường gặp. Đây là xu hướng của con người hay đánh giá một sự kiện dựa trên một ví dụ tương tự mà họ dễ tưởng tượng ra. Các nhà đầu tư kinh doanh sẽ thường đánh giá một cách sai lầm là doanh nghiệp mới này sẽ nhanh chóng thất bại dựa trên các ví dụ tương tự trong quá khứ chứ họ không dựa trên các dữ liệu thật sự để đánh giá tình huống. Tâm lí học gọi đây là “thiên hướng chính thực” – chúng ta tự đưa ra kết luận không có chứng cứ cụ thể gì, rồi sau đó sẽ chọn những thông tin để chống đỡ kết luận đặt ra và nhắm mắt làm lơ đối với những thông tin không ủng hộ kết luận của mình.
Đây là xu hướng của con người hay đánh giá một sự kiện dựa trên một ví dụ tương tự mà họ dễ tưởng tượng ra. Các nhà đầu tư kinh doanh sẽ thường đánh giá một cách sai lầm là doanh nghiệp mới này sẽ nhanh chóng thất bại dựa trên các ví dụ tương tự trong quá khứ chứ họ không dựa trên các dữ liệu thật sự để đánh giá tình huống. Tâm lí học gọi đây là “thiên hướng chính thực” – chúng ta tự đưa ra kết luận không có chứng cứ cụ thể gì, rồi sau đó sẽ chọn những thông tin để chống đỡ kết luận đặt ra và nhắm mắt làm lơ đối với những thông tin không ủng hộ kết luận của mình.
Mắc lỗi xúc động. Groopman có kể một lần về lỗi lầm khi đánh giá sai trạng thái bệnh chỉ vì ông cảm mến bệnh nhân và trong thâm tâm ông nghĩ là “Tôi hy vọng sốt này là không đáng kể và chắc tôi sẽ không tìm thấy nhiễm trùng nào trong cơ thể đâu”. Tâm lí học gọi lỗi khi chúng ta hy vọng điều gì đó là sự thật là “mắc lỗi xúc động”
Trong các tình huống khác nhau, heuristics sẽ có ý nghĩa khác. Nhiều lúc nó là những phạm trừu tượng trưng như ba định nghĩa trên; khi trong bối cảnh xã hội và tâm lí người tiêu dùng heuristics sẽ cụ thể hơn như việc đánh giá nhãn hiệu, giá cả sản phẩm hoặc sự hiếm có (quý giá) của hàng hoá.
Trích dẫn
When Heuristics Go Bad. (2007, February 4). Retrieved from https://www.edbatista.com/2007/02/when_heuristics.html
Benson, B. (2016, September 1). Cognitive bias cheat
Kahneman, D. (2011). Thinking, Fast and Slow. New York, NY: Farrar, Straus